Môi trường sinh
học ở Việt Nam là môi trường đa dạng với nhiều động và thực vật quý, từ
vùng núi phía Bắc, Trung và Tây Nguyên cho đến các vùng dọc biển và đồng
bằng đến các rừng ngập nước tiếp nối giữa đất và nước. Đồng bằng sông
Cửu Long là nơi có hệ sinh thái phong phú và đa dạng, chủ yếu là hệ sinh
thái nước (sông và biển) và rừng ngập nước ở vùng trũng và ven biển.
Đồng bằng sông Cửu Long được tạo ra bởi phù sa sông Cửu Long ít nhất
là từ 6000 năm trước đây. Con người định cư ở đồng bằng sông Cửu Long
từ lâu đời, bắt đầu được biết đến từ thời Phù Nam cách đây khoảng hai
ngàn năm qua di chỉ Óc Eo ở Long Xuyên và Kiên Giang. Theo Tổng cục Thống
kê Việt Nam, thì hiện nay (2007) mật độ dân cư ở đồng bằng là 435 người/km2,
cao thứ hai sau đồng bằng sông Hồng (5). Khoảng 17 triêu (20% dân số cả
nước) sống ở đồng bằng sông Cửu Long và tăng trưởng 2.5% mỗi năm.
I - Tổng quan về môi trường đồng bằng sông Cửu Long
Diện tích đồng bằng sông Cửu Long 39000km2 trong đó hiện nay đất canh
tác và định cư là 24000km2 còn lại là 5000km2 rừng (đa số là ngập nước).
Ba vấn đề môi trường quan tâm chính mà con người tác động đến là: nước,
đất ruộng, rừng.
(1) Nước
Lưu lượng sông Cửu Long tuỳ vào khí hậu do gió mùa nhiệt đới mang đến
qua hai mùa mưa và khô ở Đông Nam Á. Mặc dù có biển hồ Tonle Sap là hồ
chứa thiên nhiên điều hòa một phần lưu lượng chảy của sông Cửu Long nhưng
vũ lượng mưa trong mùa mưa nhiệt đới ở khắp lưu vực sông Cửu Long từ thượng
nguồn ở các phụ lưu và sông chính đến hạ nguồn rất lớn so với mùa khô,
vì thế thủy văn của sông Cửu Long có thể được mô tả như sau:
- Mùa nước nổi (lũ) chiếm khối lượng 85% lượng nước đổ ra biển mỗi năm,
mà đỉnh cao là từ tháng 8 đến tháng 10 (4). Đây là lúc nước ngập gây khó
khăn trong hoạt động dân sinh và ô nhiễm từ thành phố chảy thoát ra sông
nước. Ở những vùng có đê ngăn nước lụt một phần, nước ô nhiểm không thoát
được vì bị đê ngăn nước chảy thoát ra, nước ô nhiểm bị tù hảm làm nguy
hại đến vệ sinh y tế công cộng. Nước lũ lụt đa số (85% đến 90%) là từ
sông Tiền và sông Hậu, phần còn lại là nước lũ từ đồng bằng ở Cambodia
chảy vào. Đồng Tháp Mười là nơi nước lũ từ Cambodia tràn vào nhiều nhất
so với từ sông Cửu Long (sông Tiền). Trong hai thập niên của cuối thế
kỷ 20, hệ thống kinh rạch, đê đập, cửa ngăn nước đã được phát triển ở
nhiều nơi. Một số kênh ở An Giang nối với các kênh Rạch Giá, Kiên Giang
đổ ra biển ở vịnh Thái Lan trong mùa nước nổi. Sự thay đổi thủy văn ở
một số nơi dẫn tới vấn đề quản lý lưu lượng nước ở địa phương và giữa
chính quyền các tỉnh trong mùa lũ và mùa khô.
- Mùa khô, từ tháng 12 đến tháng 5, nước mặn xâm lấn từ biển - đất phèn
(acid sulphate). Rừng tràm dọc biển ngập nước biển do thủy triều và sản
lượng thủy sản thâu nhập ít so với mùa nước nổi. Với lưu lượng giảm, nước
mặn từ biển có nơi vào đến 40km sâu trong đất liền (7). Hơn 40% đất phía
đồng bằng gần biển ở bán đảo Cà Mau, Tứ giác Long Xuyên, và Đồng Tháp
Mười là bị acid phèn do đó chỉ có thể canh tác 1 vụ mùa lúa mỗi năm. Nhiều
công trình với sự trợ giúp quốc tế như Mekong River Commission (Ủy hội
sông Mekong), UNESCO của Liên Hiệp Quốc... thiết lập và quản lý tối ưu
có hiệu quả các cửa ngăn nước mặn ở các kênh rạch và giải quyết vấn đề
đất phèn, acid sulphate. Tổng cộng có 12 cửa ngăn nước đã được xây bắt
đầu từ năm 1992 và hoàn tất năm 2001 (10). Nhiều vùng vì thế đã tăng sản
xuất lúa với 2 vụ mùa một năm. Tuy nhiên ở một số vùng khác gần biển,
sản lượng cá tôm thuỷ sản ít đi và vì thế các vùng ở đồng bằng gần biển
nhất là bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu đã có sự tranh chấp trong kế hoạch quản
lý các cửa ngăn nước mặn. Ngoài ra vào mùa khô có sự khó khăn là thiếu
nước cung cấp trong đời sống dân chúng ở một số nơi đông dân cư. Nước
ngầm được coi là nguồn tài nguyên quan trọng. Giải quyết vấn đề cung cấp
nước cũng là một vấn đề đáng quan tâm. Với mực độ dân tăng trưởng cao,
giếng nước cung cấp hiện nay cung ứng không đủ.
Ô nhiễm môi trường nước chưa phải là vấn đề đáng quan tâm (trừ một số
vùng dân cư, khu công nghiệp mới và gần các công trình xây dựng như cầu
Cần Thơ), nhưng đang có chiều hướng tăng trưởng trong tương lai gần. Sự
phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng, quản lý nước thải, chất thải rắn chưa
tốt đã và đang ảnh hưởng đến chất lượng môi trường nước. - Dùng phân bón
nhiều, thuốc trừ sâu ảnh hưởng đến môi trường nước và thuỷ sản (nhất là
tôm).
- Phá rừng làm đất canh tác ảnh hưởng đến lượng phù sa và do đó ảnh hưởng
đến thu hoạch thuỷ sản
- Đào kênh, nước ngập để xả acid trong những vùng đất bị acid gây acid
ở môi trường thoát nước ảnh hưởng đến tôm, cá và rừng ngập nước. Đã có
nhiều bài báo cáo khoa học về vấn đề này. Do đó cần quản lý, quan tâm
tổng thể vào tác động vào môi trường khi thực hành dự án chống acid phèn.
Hết sức thận trọng cân bằng phát triển tăng thêm đất canh tác và tăng
thu hoạch với bảo vệ hệ sinh thái rừng nước ngập.
- Dùng nhiều nước cho hai vụ lúa, nhất là vào mùa khô, và phát triển nhiều
kênh rạch. Hậu quả là làm giảm lưu lượng chảy của sông vào mùa khô, dẫn
đến nước mặn lấn sâu vào đồng bằng.